(Nguồn từ: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)Đồng tính luyến ái, viết tắt là
ĐTLA, được đọc ngắn là
đồng
tính, hay một cách khiếm nhã là
pê-đê (từ
tiếng
Pháp pédé, ngắn cho
pédérastie - loạn dâm), hay
gay(từ
tiếng
Anh, thường dùng cho
phái nam) và
lesbian (dùng cho
phái
nữ), là việc
yêu đương hay mối
quan hệ tình dục giữa những người đồng
giới
tính với nhau.
Khái niệm này khác với khái niệm
ái nam ái nữ, bán nam bán nữ, hay
giới tính thứ ba. Đồng tính luyến
ái không phải là một giới tính, mà là một trong những
thiên hướng tính dục (
sexual
orientation).
Trong nhiều
giai đoạn lịch sử và các
nền văn hóa khác nhau, việc đồng tính luyến ái có thể
được tán thành, bỏ qua hay bị trừng phạt và cấm đoán. Nhiều
tôn
giáo có nhiều
quan điểm khác nhau về việc này. ĐTLA
được coi là một dạng trong nhóm
LGBT.
Hiện nay, trên quan điểm pháp luật, hầu hết các quốc gia trên thế giới không
cấm đoán quan hệ tình dục giữa những người đủ tuổi. Một số
địa phương công nhận đồng quyền, và đối
xử những cặp đồng tính như vợ chồng. Một số địa phương khác, như các nước
Hồi
giáo, không chấp nhận việc quan hệ đồng tính và người quan hệ đồng tính có
thể bị phạt tù hoặc thậm chí tử hình. Tại Việt Nam
hiện nay không có luật cấm quan hệ tình dục đồng tính
[1], nhưng hôn nhân đồng tính là trái với
luật hôn nhân và gia đình.
Tự nhiênCác biểu hiện về đồng tính thật sự có trong thế giới
động vật, đặc biệt trong các loài chim biển, động vật có
vú,
khỉ và các
loài linh trưởng lớn. Đã có 1500 trường hợp được quan sát, trong đó có khoảng
500 trường hợp được miêu tả khá cụ thể. Jannet Mann, giáo sư của
Đại học Georgetown cho rằng,
các biểu hiện đồng tính ở động vật, ít nhất là ở
cá heo, là một lợi thế về tiến hóa để giảm
thiểu sự xâm chiếm lãnh thổ, đặc biệt là giữa những con đực.
Các đôi chim cánh cụt đực coi nhau như những người bạn đời. Chúng xây tổ
cùng nhau, lấy một hòn đá thay trứng để ấp. Năm 2004, ở
Central Park Zoo, Mỹ, người ta đã
thay một hòn đá của đôi chim cánh cụt đực bằng một quả trứng thật, kết quả là
đôi chim đó đã chăm sóc quả trứng này cũng như con non nở ra như chính con của
chúng. Hiện tượng này cũng được báo cáo bởi một số vườn thú khác.
Sự ve vãn, cùng với
giao cấu, giữa những con bò đực Mỹ (
bison) đã được
ghi chép lại. Điều này cũng thường thấy trong các gia súc cái.
Nguyên nhânBẩm sinhCó trường phái giải thích cho rằng do
hormone: những người đàn ông có
ostrogen hoặc phụ nữ có
androgen quá mức sẽ có thể bị ảnh hưởng
cả về thể chất và tâm lí, đồng tính luyến ái là do các hormone này.
Có người lại cho rằng mấu chốt của vấn đề lại nằm trong
gen. Một số nghiên cứu
chỉ ra rằng 33% những người anh trai có em đồng tính luyến ái cũng sẽ trở thành
đồng tính luyến ái, kể cả khi họ lớn lên trong hai môi trường khác nhau. Để
giải thích, các nhà khoa học đã đề xuất một lí thuyết:
bào thai nam đã sản xuất ra một loại kháng
nguyên (HY) mà hầu như chắc chắn có liên quan đến sự khác biệt về giới tính ở
động vật có xương sống, sẽ làm cho các kháng thể H-Y của người mẹ phản ứng lại
và ghi nhớ. Các bào thai nam kế tiếp sẽ bị kháng thể HY tấn công và làm giảm
khả năng thực hiện các chức năng thông thường của kháng nguyên HY để tạo ra
"nam tính". Một điều thú vị là hiện tượng này chỉ xảy ra ở những
người đàn ông thuận tay trái. Không có trường hợp nào được ghi nhận ở nữ giới.
Quá trình phát triển tâm lýTuy nhiên,
Sigmund Freud và rất nhiều nhà tâm lí học khác lại
cho rằng quá trình hình thành các kinh nghiệm thời thơ ấu của trẻ góp phần định
hướng giới tính của trẻ sau này. Freud nêu ra một ví dụ là phần lớn trẻ vị
thành niên là người quan hệ đồng giới khi lớn sẽ trở lại bình thường. Ông tin
rằng người vẫn là đồng tính luyến ái khi đã lớn đã gặp phải một sự kiện gây tổn
thương về tâm lý, ngăn chặn sự phát triển giới tính bình thường của những người
này. Nhưng ông cũng tin rằng tất cả người lớn, kể cả những người có một quá
trình phát triển giới tính bình thường, vẫn có một "khả năng đồng
tính" tiềm tàng ở nhiều cấp độ khác nhau.
Để tổng kết lại, người ta đã xem lại tất cả các nghiên cứu về vấn đề này và
kết luận: Các hành vi về giới tính là rất khác nhau đối với mỗi người. Cũng như
trí thông minh, thiên hướng tính dục cũng là một phần hết sức phức tạp mà khoa
học hiện đại đang cố gắng giải thích bằng
di truyền học... Không thể khẳng định là đồng tính
hoàn toàn là do các quá trình
sinh học,
mà là từ phát triển qua một quá trình bao gồm cả các yếu tố sinh lý và tâm lý.
Một số nghiên cứuRất nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, phần lớn con người là bisexual (yêu
thích cả hai phái nam và nữ), theo như quan niệm của các nước phương Tây về
tính dục.
Cũng đã có rất nhiều nhà nhân chủng học có các nghiên cứu về vấn đề này. Tuy
nhiên, đây là một trong các vấn đề khá nhạy cảm của xã hội nên các số liệu có
thể chưa nói hết được, bởi số người tự nhận mình là gay hoặc lesbian ít hơn
nhiều so với thực tế.
Một báo cáo gây tranh cãi của
Alfred Kinsey vào năm 1948 cho biết
37% nam giới đã có quan hệ với người đồng giới trước đó, 4% trong số đó có quan
hệ chỉ một lần. Đối với phụ nữ, 2 đến 6% tuyên bố rằng họ đã từng có quan hệ
này một lần.
Ở
Mỹ, trong
cuộc tổng tuyển cử năm 2004, người ta ghi nhận có 4% cử tri tự nhận họ là gay
hoặc lesbian. Tuy nhiên, do áp lực xã hội, nhiều người có thể không công nhận
thiên hướng tính dục của mình.
Ở
Canada, một
báo cáo vào năm 2003 của cục thống kê quốc gia cho biết trong những người
Canada độ tuổi 18-59, 1% tự nhận họ là gay hoặc lesbian, 0,7% tự nhận là
bisexual.
Vào cùng thời gian, một cuộc điều tra về giới tính toàn cầu, 19% người
Canada và 20% người Mỹ tuyên bố họ đã từng có "kinh nghiệm" về đồng
tính.
Ở
Nam Phi,
Trung
Đông và
Trung
Á, nơi mà quan hệ đồng tính được coi là một thói quen, quan hệ giữa những
người đàn ông là chuyện phổ biến, nhiều người còn không cho mình là đồng tính.
Trên
Family Health International của
WHO, các nghiên cứu cho
thấy người
đồng tính có dương vật to hơn đáng kể so với đàn ông bình
thường
[2].
Ảnh hưởng xã hộiTrái lại, một số người khác cho rằng việc đồng tính luyến ái là một sự lựa
chọn, và có thể thay đổi được. Một số cho rằng đây là một bệnh
tâm thần cần được chữa. Hơn nữa, nhiều
giáo phái cho rằng đây là một cách hưởng thụ tội lỗi và cần phải thay đổi.
Những nhóm người tin vào cách giải thích này đưa ra các bằng chứng của những
người tự nhận là cựu ĐTLA đã được chữa khỏi.
Quan điểm tại Việt NamTheo các nhà nghiên cứu Colby, Cao và Doussantousse, hiện nay tại
Việt Namcó rất ít nghiên cứu về ĐTLA. Trước sự xuất hiện của HIV/
AIDS tại Việt Nam
đầu
thập niên 1990, có rất ít thông tin về đồng tính
luyến ái. Theo bác sĩ
Trần Bồng Sơn, nhà giới tính học nổi
tiếng nhất tại Việt Nam,
có hai loại người đồng tính: "thật" và "giả". Những người
"đồng tính thật" là những người đồng tính bẩm sinh, và số người này
rất hiếm. Theo ông, hầu hết những người đồng tính là "giả", bị bạn bè
rủ rê để thử nghiệm các lối mới nhưng cuối cùng cũng trở về lối thường. Sau
trao đổi ý kiến với ông Sơn, các nhà nghiên cứu Colby, Cao và Doussantousse cho
rằng quan điểm đó là ý kiến cá nhân của ông Sơn, chứ không phải từ các nghiên
cứu hay tài liệu. Tuy thế, vì bác sĩ Sơn có nhiều ảnh hưởng, quan điểm này đã
được lặp lại nhiều lần tại Việt Nam
và được xem là đúng
[1].