wagaclub
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
wagaclub

Tự Tin Thể Hiện Giới Tính _Hãy Đăng Kí Để Khám Phá Những Điều Bí Ẩn ^^!
 
Trang ChínhTrang Chính  GalleryGallery  Tìm kiếmTìm kiếm  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
[b]
Bài gửiNgười gửiThời gian
Một niền vui bằng ngàn nỗi buồn Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Master Sun May 24, 2009 12:24 pm
THÔNG BÁO TÌM BẠN ĐỒNG HÀNH CÙNG WAGA CLUB Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Master Sun May 24, 2009 12:17 pm
Chân tình là hạnh phúc bền lâu Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Master Sun May 24, 2009 12:13 pm
Bangkok Love Story-Thai Lan Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Master Sun May 10, 2009 9:39 pm
Formula 17- Đài Loan Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Master Sun May 10, 2009 9:32 pm
Antonio's secret - Philippin Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Master Sun May 10, 2009 9:28 pm
wellcome to boy tay ninh ! Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Master Sun May 10, 2009 9:21 pm
The Love Of Siam- Thai Lan Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Master Sun May 10, 2009 9:20 pm
Đồng tính bị lạm dụng trên báo và phim? Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Master Wed May 06, 2009 1:23 am
Clock
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
 Portal
 Diễn Đàn
 Thành viên
 Lý lịch
 Trợ giúp
 Tìm kiếm
Thống Kê
Hiện có 0 người đang truy cập Diễn Đàn, gồm: 0 Thành viên, 0 Thành viên ẩn danh và 0 Khách viếng thăm :: 1 Bot

Không

Số người truy cập cùng lúc nhiều nhất là 24 người, vào ngày Thu Apr 13, 2023 1:53 am
November 2024
SunMonTueWedThuFriSat
     12
3456789
10111213141516
17181920212223
24252627282930
CalendarCalendar

 

yaoi^^!

Thời tiết một số vùng miền trên đất nước ta:
Nhiệt độ - Thời gian- Độ ẩm
Cao Bằng
Thời tiết Cao bằng, Việt Nam
Cà Mau
Thời tiết Cà Mau, Việt Nam
Côn Son
Thời tiết Con Son, Việt Nam
B?ch Long Vi
Th?i ti?t Bach Long Vi, Vi?t Nam
Ðà N?ng
Thời tiết Ðà Nẵng Việt Nam
Ð?ng H?i
Thời tiết Ðồng Hới Việt Nam
Hà N?i
Thời tiết Hà Nội, Việt Nam
Thành ph? HCM
Thời tiết Hồ Chí Minh, Việt Nam
Hu?
Thời tiết Huế, Việt Nam
L?ng Son
Thời tiết Lạng Sơn, Việt Nam
Lào Cai
Thời tiết Lào Cai, Việt Nam
Nam Ð?nh
Thời tiết Nam Ðịnh, Việt Nam
Nha Trang
Thời tiết Nha Trang, Việt Nam
Phan Thi?t
Thời tiết Phan Thiết, Việt Nam
Phú Qu?c
Thời tiết Phú Quốc, Việt Nam
Quy Nhon
Thời tiết Quy Nhơn, Việt Nam
Son La
Thời tiết Sơn La, Việt Nam
Thành ph? HCM
Thời tiết Cần Thơ, Việt Nam
Thanh Hoá
Thời tiết Thanh Hoá, Việt Nam
Tru?ng Sa
Thời tiết Trường Sa, Việt Nam
Vinh
Thời tiết Vinh, Việt Nam

Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Tw
Thời tiết Nam Á và các nước trên Thế Giới


 

 Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo

Go down 
Tác giảThông điệp
taydomusic
Nông Dân Tích Cực
Nông Dân Tích Cực
taydomusic


Nam
Tổng số bài gửi : 526
Age : 41
Đến từ : Cần Thơ yêu dấu
Nghề Nghiệp : Ăn chơi - Đàn địt - Hút chích
Top/Bot : Âm nhạc
Kinh Nghiệm :
Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Left_bar_bleue0 / 1000 / 100Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Right_bar_bleue

Registration date : 03/10/2008

Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Empty
Bài gửiTiêu đề: Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo   Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Icon_minitimeFri Oct 10, 2008 9:06 am

Phật giáo hướng dẫn, và chờ đợi từ Phật tử một trình độ nhất định ở mặt cư xử đạo đức. Trình độ tối thiểu được đòi hỏi từ Phật tử tại gia được ghi lại trong Ngũ giới (pā. pañcasīla), với giới thứ ba liên quan đến thái độ tình dục. Đồng tính luyến ái (ĐTLA) hay không ĐTLA —mối quan hệ tình dục giữa hai người có cùng giới tính có thể vi phạm giới luật thứ ba này và đây cũng chính là điểm tôi muốn khảo sát ở đây. Bài viết riêng cho diễn đàn Tình Yêu Trai Việt.

Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo

Janapadaratna chuyển ngữ từ bài

“Homosexuality and Theravada Buddhism”—Đồng Tính Luyến Ái và Phật Giáo Thượng Toạ Bộ[1]. Tác giả: A. L. De Silva, với sự hỗ trợ của bạn Yankee. Có ghi chú và phân đoạn thêm.

Lấy từ trang http://www.buddhanet.net/homosexu.htm

Viết tắt pā. Pāli; en. english; ĐTLA đồng tính luyến ái; DTLA dị tính luyến ái;
Dẫn nhập —Thái độ Phật giáo về quan hệ tình dục

Phật giáo hướng dẫn, và chờ đợi từ Phật tử một trình độ nhất định ở mặt cư xử đạo đức. Trình độ tối thiểu được đòi hỏi từ Phật tử tại gia được ghi lại trong Ngũ giới[2] ( pā. pañcasīla), với giới thứ ba liên quan đến thái độ tình dục. Đồng tính luyến ái (ĐTLA) hay không ĐTLA—mối quan hệ tình dục giữa hai người có cùng giới tính có thể vi phạm giới luật thứ ba này và đây cũng chính là điểm tôi muốn khảo sát ở đây.

Quan hệ ĐTLA đã được biết đến ở Ấn Độ thời xưa; nó được ghi lại một cách minh xác trong Luật tạng ( pā. vinaya) và bị cấm chỉ. Nó không được đề xuất đơn lẻ để rồi bị kết án một cách đặc biệt mà chỉ đơn thuần được nhắc lại cùng với hàng loạt thái độ tình dục khác phủ nhận quy chế yêu cầu tăng ni phải sống tuyệt dục. Quan hệ tình dục bao gồm sự xuyên nhập bất cứ căn môn thân thể nào (âm hộ, miệng hoặc hậu môn) với bộ phận sinh dục—dù với người đồng tính hoặc dị tính—đều bị trừng phạt bằng sự trục xuất khỏi tăng đoàn. Các thái độ tình dục khác như thủ dâm cho nhau hoặc hành vi tình dục giữa háng (en. interfemural) tuy cũng bị xem là vi phạm nặng, không dẫn đến sự trục xuất nhưng cũng phải được tự thú nhận trước tăng đoàn.

Một loại người được gọi là Pandaka[3] thỉnh thoảng được nhắc đến trong Luật tạng, trong những trường hợp cho thấy rằng người này là thuộc loại không tuân giáo (en. non-conformist) về mặt tình dục. Luật tạng cũng quy định là Pandakas không được thụ giới nhập môn và nếu ai đó vì sơ suất nào đó mà được nhập môn thì bị trục xuất. Theo các luận giải thì sự việc được xử lí như vậy vì những người Pandaka đều “đầy tình dục, khát vọng tình dục vô tận và bị tình dục sai khiến”. Từ Pandaka đã được dịch ý là người lưỡng tính (en. hermaphrodite) hoặc bị hoạn, trong lúc Zwilling gần đây đề nghị là từ này chỉ đơn thuần chỉ một người ĐTLA. Nhưng trường hợp sau đây lại có thể hơn, tức là những người Ấn Độ thời xưa—tương tự phần lớn người châu Á hiện đại—chỉ xem loại người ĐTLA cực kì nữ tính và phô trương (một “bóng lộ” trong cái nhìn chung của mọi người) là dị thường trong khi một người ĐTLA không hiển nhiên lắm được xem một cách đơn thuần là một kẻ tuỳ cơ đôi chút hoặc một người ít cầu kì hơn những người nam “bình thường” khác.

Vì Phật dường như đã có được sự hiểu biết sâu sắc về bản tính con người, siêu việt mọi thành kiến, và vì không có bằng chứng cho thấy những người ĐTLA đam mê dục lạc hơn hoặc họ gặp nhiều khó khăn trong việc giữ Phạm hạnh[4] (tuyệt dục, pā. brahmacariyā) hơn là những người dị tính luyến ái (DTLA), thế nên, việc Phật cách tuyệt những người ĐTLA ra khỏi cuộc sống tu viện một cách rõ ràng là một chuyện khó có thể. Như vậy thì, thuật ngữ Pandaka không chỉ đến người ĐTLA chung chung, mà đúng thật là chỉ người ĐTLA có những nét nữ tính, phô trương và tạp loạn.

Phật tử tại gia không phải sống Phạm hạnh, nhưng cô hoặc anh ta được khuyên là tránh một vài dạng thái độ tình dục nhất định. Giới thứ ba nói đúng như sau: “kāmesu micchācārā veramanī sikkhāpadam samādiyāmi.” Chữ kāma chỉ tất cả những dạng dục lạc, nhưng có sự nhấn mạnh đến thú vui xác thịt và một cách dịch sát nghĩa của giới này có thể là “Tôi thụ giới tu học (pā. veramanī sikkhāpadam samādiyāmi) không đi sai đường (pā. micchācārā) vì dục lạc ( pā. kāmesu)”. Cái “sai” ở đây sẽ không được rõ cho đến khi chúng ra chẩn sát những tiêu chuẩn mà Phật giáo áp dụng để đưa ra những thẩm định đạo đức.
Cơ sở phê phán đạo đức

Không có bài dạy nào của đức Phật chuyên chú về việc đặt câu hỏi một cách có triết lí hệ thống về đạo đức học như chúng ta có thể tìm thấy trong những tác phẩm của các triết gia Hi Lạp. Nhưng chúng ta có thể lập nên một tiêu chuẩn cho đúng hoặc sai từ những tài liệu rải rác ở những nơi khác nhau trong suốt bộ Đại tạng kinh Pali (Pāli Tipitaka), kinh điển cơ sở của Phật giáo Thượng Toạ bộ (pā. theravāda).

Đức Phật đã thẩm vấn nhiều giả định có sẵn trong xã hội của ngài, bao gồm những điểm có liên hệ đến luân lí đạo đức, và ngài đã tìm cách phát triển một luân lí gần như lập cơ sở trên lí tính và từ bi hơn là lập trên truyền thống, mê tín dị đoan và cấm kị (en. taboo). Thật như thế, trong bài kinh Kalama nổi danh, ngài tuyên bố rằng, sự hiển thị linh thiêng (en. revelation, pā. anussana), truyền thống thừa tự (pā. paramparā), thẩm quyền của kinh điển (pā. pitakasampadā) và kiến giải riêng (pā. ditthinijjhānakkhanti) là những phương tiện không đạt tiêu chuẩn để phán định được đúng hoặc sai.

Sau khi thẩm vấn cơ sở đạo đức quy ước, đức Phật đã đưa ra ba tiêu chuẩn cho việc thực hiện những thẩm định đạo đức. Tiêu chuẩn thứ nhất là nguyên tắc năng phổ cập hoá[5] (en. universalisability principle)—đối xử với người đúng như ta muốn người đối xử với ta. Trong Tương Ưng Bộ kinh (pā. Samyutta Nikāya), ngài đã áp dụng nguyên tắc này để ngăn cản tội ngoại tình. Ngài nói: “Tu tập pháp nào dẫn đến sự an lạc lớn cho chính mình?... Một đệ tử chân chính nên suy nghĩ như sau: ‘Nếu ai đó ăn nằm với vợ tôi thì tôi không thích. Cũng như thế, nếu tôi ăn nằm với vợ của người khác thì người ấy không thích. Cái gì tôi không thích ắt kẻ kia cũng không ưa, và làm sao tôi có thể trút gánh nặng này cho một người nào đó được?’ Và kết quả của mối suy nghĩ này là người ta sẽ tự kiềm chế mình trước nhục dục sai trái, khuyến khích người khác tự kiềm chế mình trước nó và tán thán sự li dục này.”

Trong kinh Bahitika, ngài A-nan ( pā. ānanda) được hỏi là làm sao phân biệt được thái độ đáng được ca ngợi và thái độ đáng bị chê bai. Ngài trả lời rằng, mỗi thái độ gây thương hại cho chính mình và người khác đều có thể được gọi là đáng bị chê trách, trong khi mỗi thái độ không gây thương hại (và suy diễn theo lôgic là hỗ trợ) chính mình và người khác có thể được gọi là đáng được ca ngợi. Như vậy thì ý kiến ở đây nằm ở chỗ: Để xác định được đúng hoặc sai thì ta phải nhìn vào những hậu quả thật sự và có thể của hành động quy về mối quan hệ của người thực hiện và những người bị ảnh hưởng bởi hành động đó. Đức Phật đề cao ngay điểm này trong kinh Pháp cú ( pā. dhammapada): “Hành động gây hối hận sau này và có kết quả là khóc than là hành động xấu. Hành động không gây hối hận sau này và mang kết quả là vui sướng và an lạc là hành động tốt.” Đây là cái mà chúng ta có thể gọi là nguyên tắc hậu quả (en. consequential principle), tức là thái độ có thể được xem là tốt hay xấu tuỳ theo kết quả hoặc ảnh hưởng nó hàm dung.

Cách xác định đúng hoặc sai thứ ba có thể được tạm gọi là nguyên tắc dụng cụ (hoặc phương tiện, en. instrumental principle), như vậy có nghĩa là, thái độ có thể được xác định là đúng hay sai tuỳ theo trường hợp nó giúp chúng ta đạt mục đích hay không. Mục đích cứu cánh của Đạo Phật là Niết-bàn ( pā. nibbāna), một trạng thái an tĩnh và thanh tịnh của tâm thức và cái gì dẫn chúng ta đến nơi ấy là cái tốt. Một người nào đó đã một lần hỏi Phật là sau khi ngài nhập diệt làm sao biết được giáo pháp nào là giáo pháp đích thật của ngài và giáo pháp nào không chân chính, và ngài đã trả lời rằng: “Các giáo pháp mà ông có thể nói về chúng là: ‘Các giáo pháp này dẫn đến sự buông xả, sự từ bỏ, sự yên lặng, tịch tĩnh, trí huệ siêu việt, giác ngộ và Niết-bàn’—ông có thể chắc chắn được là chúng chính là Pháp, là Luật, là những lời dạy của bậc Thầy.”

Phong thái thiết thực về mặt đạo đức này được nhấn mạnh bằng sự thật là Phật dùng thuật ngữ kusala với nghĩa “thiện” hoặc “thích hợp” hoặc từ đối nghịch nó là akusala khi phê bình thái độ thường hơn là dùng từ puñña, ‘công đức’ hoặc pāpa, ‘tội lỗi’. Một điểm khác quan trọng cho việc phê bình thái độ là chủ ý (en. intention, pā. cetanā). Nếu một hành động được thúc đẩy bởi những chủ ý tốt (có cơ sở là bố thí, từ bi và hiểu biết) thì nó có thể được xem là thiện lành. Phê bình thái độ đạo đức trong Phật giáo đòi hỏi nhiều hơn là việc làm theo quy luật một cách phục tòng—nó đòi hỏi chúng ta phát triển một sự đồng cảm với người khác, ý thức được những mối tư duy, lời nói và hành động, và biết rõ về mục đích và nguyện vọng của chính chúng ta.
Phê phán quan hệ tình dục

Sau khi khảo sát một cách ngắn gọn cơ sở lí tính của Đạo đức nhà Phật, chúng ta giờ đây đạt được một vị trí tốt hơn để hiểu được thái độ tình dục nào Phật giáo có thể xem là sai trái hoặc bất thiện và vì sao. Đức Phật đã nói đến nhiều loại thái độ tình dục bất thiện một cách đặc thù, và loại thường gặp nhất là ngoại tình (en. adultery). Ngoại tình bất thiện, vì nó đòi hỏi một luận điệu lẩn tránh và giả dối, có nghĩa là, những lời hứa nghiêm túc được thực hiện khi kết hôn bị chôn vùi, và nó tích tụ thành sự phản bội lòng tin. Trong một đoạn kinh văn khác, đức Phật nói rằng một ai đang giữ giới thứ ba tránh việc thông dâm với gái trẻ đang ở trong sự trông nom của cha mẹ, anh, chị hoặc thân quyến, với người đã có chồng, với nữ tù nhân hoặc với những người đã được hứa hôn cho người khác.” Những gái trẻ còn được người khác trông nom có lẽ quá non nớt để có thể quyết định việc tình dục một cách có trách nhiệm; tù nhân không ở một địa vị để có thể chọn lựa một cách tự do, trong khi một cô gái đã được hứa hôn đã thác phó mình cho người khác. Mặc dù chỉ phụ nữ được nhắc đến ở đây nhưng trường hợp như thế này chắc chắn cũng được áp dụng cho phái nam ở cùng địa vị.


(sưu tầm từ website tinhyeutraiviet)
Về Đầu Trang Go down
taydomusic
Nông Dân Tích Cực
Nông Dân Tích Cực
taydomusic


Nam
Tổng số bài gửi : 526
Age : 41
Đến từ : Cần Thơ yêu dấu
Nghề Nghiệp : Ăn chơi - Đàn địt - Hút chích
Top/Bot : Âm nhạc
Kinh Nghiệm :
Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Left_bar_bleue0 / 1000 / 100Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Right_bar_bleue

Registration date : 03/10/2008

Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo   Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo Icon_minitimeFri Oct 10, 2008 9:07 am

Vì ĐTLA không được nhắc đến một cách minh xác trong bất cứ bài kinh nào của đức Phật (trên 20 bộ trong bản dịch Anh ngữ của Pali Text Society) nên chúng ta chỉ có thể giả định là nó được phê phán tương tự như DTLA được phê phán. Và thật vậy, có vẻ như đây là lí do vì sao nó không được nhắc đến một cách đặc biệt. Trong trường hợp nam và nữ cư sĩ, khi có sự thoả thuận hai bên, khi không có ngoại tình và khi quan hệ tình dục là biểu hiện của tình yêu, của sự tôn trọng, thuỷ chung và nhiệt tình thì nó không vi phạm giới thứ ba. Và trường hợp cũng y như vậy khi hai người có cùng giới tính. Cũng như thế, tính tạp loạn (en. promiscuity), phóng túng (en. license) và không tôn trọng tình cảm của người khác sẽ làm cho một quan hệ tình dục bất thiện, bất cứ quan hệ DTLA hay quan hệ ĐTLA. Tất cả những nguyên tắc mà chúng ta áp dụng để phê bình một mối quan hệ DTLA đều có thể được áp dụng để phê bình một mối quan hệ ĐTLA. Trong Phật giáo, chúng ta có thể nói rằng, không phải đối tượng của sự ham muốn tình dục của một ai đó thẩm định một hành vi tình dục là bất thiện hay không, mà thật sự là chất lượng của các cảm xúc và chủ ý liên quan trong đó.

Tuy nhiên, đức Phật đôi lúc cản ngăn một thái độ nhất định nào đó, không phải vì nó sai trên phương diện đạo đức mà vì nó có thể đưa ta đến sự xung đột với những quy chế xã hội hoặc vì nó lệ thuộc vào các ước chế pháp luật. Trong những trường hợp này, Phật nói rằng, việc tiết chế thái độ như thế sẽ giải thoát chúng ta ra khỏi ưu lo và gian nan bị gây ra bởi thái độ không tán thành của xã hội, và giúp chúng ta thoát được nỗi âu lo về các hành động trừng phạt.

Quan hệ ĐTLA có thể được liệt kê vào loại thái độ này. Trong trường hợp này, người ĐTLA phải quyết định là chính mình, tức là cô hoặc anh ta sẽ chấp nhận cái mà xã hội yêu cầu hoặc là tìm cách biến chuyển thái độ của công chúng. Trong các xã hội phương Tây, nơi mà nhìn chung thái độ về tình dục đã bị ảnh hưởng mạnh bởi các cấm kị bộ lạc của Cựu Ước—và trong Tân Ước bởi những tư tưởng quá đỗi bệnh hoạn thần kinh của những người như St. Paul—ta thấy được một chứng cứ ủng hộ mạnh cho việc chuyển hoá thái độ công chúng.

Chúng ta giờ đây khảo sát một cách ngắn gọn những luận cứ phản đối ĐTLA và đưa ra những kháng biện theo nhà Phật. Phản đối thường gặp nhất từ phía Thiên Chúa giáo và Hồi Giáo là quan hệ ĐTLA không tự nhiên và “đi ngược quy tắc tự nhiên”. Và dường như ít có chứng cứ cho sự kiện này. Miriam Rothschild, một nữ sinh vật học trứ danh, người đã đóng vai trò quyết định trong phong trào đấu tranh nhằm hợp pháp hoá ĐTLA tại Anh quốc, khi ấy chỉ ra rằng, cách sống ĐTLA đã được quan sát ở hầu hết tất cả những loài động vật. Thứ hai là ta có thể biện luận rằng, tuy chức năng sinh vật của tình dục là phục tạo (en. reproduction), nhưng hầu hết những hành vi tình dục thời nay không đáp ứng việc phục tạo mà chỉ để hưu dưỡng (en. recreation) và thoả mãn tình cảm—và đây cũng là một chức năng hợp lí của tình dục. Và như thế, ĐTLA tuy không tự nhiên về mặt nó không dẫn đến sự phục tạo, nó hoàn toàn tự nhiên đối với một người ĐTLA về mặt nó có thể mang đến cho anh ta hoặc cô ta sự thoả mãn thể xác và tình cảm. Thật như thế, đối với anh hoặc cô ấy, cách sống DTLA là phi tự nhiên. Thứ ba là ngay khi chúng ta thừa nhận ĐTLA “đi ngược quy tắc tự nhiên” thì chúng ta cũng phải công nhận rằng nhiều cách sống con người cũng là như thế, kể cả một vài cách sống theo tôn giáo sùng tín. Ca-tô giáo La-mã lúc nào cũng tố cáo ĐTLA vì tính phi tự nhiên được gán vào nó—nhưng lại có sự sống tuyệt dục (en. celibacy) được lí tưởng hoá lâu dài, là cái mà một số người có thể luận cứ cho rằng phi tự nhiên tương đương.

Một cách phản đối ĐTLA khác của Thiên chúa giáo là: ĐTLA bị lên án trong Thánh kinh—một luận cứ mang đầy ý nghĩa cho những ai thừa nhận Thánh kinh là lời dạy bất khả khiếm khuyết của Thượng Đế, nhưng lại hoàn toàn vô nghĩa đối với phần đa số không thừa nhận sự việc này. Nhưng, trong khi không còn nghi vấn nào nữa về việc Thánh kinh kết tội ĐTLA, nó cũng quy định là nên cách li quan hệ xã hội với phụ nữ trong thời kì kinh nguyệt và cha mẹ nên giết con của mình nếu chúng tôn xưng bất cứ một Thượng Đế nào khác Thượng Đế trong Thiên Chúa giáo, và những ai làm việc trong thời gian Sabbath nên bị xử tử. Thời nay, ít tín đồ Thiên Chúa giáo nào tin vào những tư tưởng này—ngay cả trường hợp chúng là một phần của những lời Thượng Đế—, và họ vẫn tiếp tục lên án ĐTLA chỉ đơn thuần là vì ĐTLA bị kết tội trong Thánh kinh.

Thỉnh thoảng chúng ta nghe những lời như: “Giả sử ĐTLA không bất hợp pháp thì nhiều người, kể cả những người trẻ, sẽ trở thành ĐTLA”. Loại trần thuật này phản ánh một sự hiểu sai lạc trầm trọng về bản chất của ĐTLA hoặc có thể phản ánh bản chất ĐTLA tiềm tàng của người thốt ra một lời như thế. Lời này cũng ngu xuẩn cỡ như nói rằng, nếu việc tự vẫn bất thành không là một hành vi phạm tội thì ai ai cũng chạy đi tìm cách tự vẫn. Nguyên nhân của ĐTLA dù là gì đi nữa (và đang có cuộc tranh luận lớn về chủ đề này) thì người ta cũng chắc chắn không “chọn” lựa để có những cảm xúc ĐTLA như trường hợp người ta chọn lựa, cỡ như chọn một tách trà thay cho tách cà phê. Tính ĐTLA là bẩm sinh hoặc phát triển trong thời thơ ấu. Và sự việc cũng như thế trong trường hợp DTLA. Việc thay đổi luật pháp không thay đổi tính hướng tình dục của con người.

Một số người đã biện luận rằng phải có một cái gì đó không ổn nơi quan hệ ĐTLA vì quá nhiều người ĐTLA bị hỗn loạn tình cảm. Trước tiên thì có vẻ như có phần đúng ở đây. Ở phương Tây, ít nhất là ở đây, nhiều người ĐTLA đau khổ vì các vấn đề tâm lí, lạm dụng rượu và vướng mắc vào hành vi tình dục ám ảnh. Nhìn như một nhóm chung thì những người ĐTLA có tỉ lệ tự vẫn cao. Nhưng nhiều người quan sát đã cho ý kiến rằng, những vấn đề này dường như không xuất hiện rõ ràng ở những nhóm có quan hệ ĐTLA ở châu Phi và châu Á nhiều hơn là trong những xã hội họ đang sống. Rất có thể là những người ĐTLA phương Tây bị thái độ xã hội đối với họ tổn thương nhiều hơn tính hướng tình dục của họ, và, nếu họ được đối xử y như mỗi người khác thì họ sẽ là những người như mỗi người khác. Quả thật như thế, đây là luận cứ mạnh nhất cho sự thừa nhận và thông hiểu người ĐTLA.

Thiên Chúa giáo xuất phát từ Do Thái giáo và thừa hưởng tôn giáo này với truyền thống của các nhà tiên tri nhiệt tâm, công cáo phế trừ một cách hùng hồn những gì họ cho là không nghiêm túc đạo đức và không công bình. Đức Chúa Jesus đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi truyền thống này cũng như những cách ứng đáp của Thiên Chúa giáo đối với đạo đức công chúng và riêng tư nhìn chung. Nói về cái hay nhất của nó thì truyền thống tố cáo mạnh mẽ những gì phi đạo đức và bất công bình trong Thiên Chúa giáo đã mang đến phương Tây một trình độ ý thức xã hội cao. Nhược điểm nặng nhất của nó lại là việc diệt trừ và bức hại một cách tàn nhẫn những ai đã không hoặc đã không thể tuân thủ những tiêu chuẩn của Thiên chúa giáo.

Vai trò của một tăng sĩ Phật giáo luôn luôn khác hẳn vai trò của người giữ vai tương ưng trong Thiên Chúa giáo. Công việc của ông ta là thuyết giảng Phật pháp và hành động như một ví dụ điển hình thầm lặng của Phật pháp ứng dụng. Điểm này, cùng với một cách tiếp cận đạo đức theo lí tính và sự đề cao tính khoan dung, đã dẫn đến sự việc là những người ĐTLA trong các xã hội theo Phật giáo đã được đối xử thật khác biệt so với những người ĐTLA ở phương Tây. Ở các nước như Trung Hoa, Hàn và Nhật, nơi Phật giáo đã bị ảnh hưởng thâm sâu bởi Nho giáo, đã có những thời đoạn mà ĐTLA bị nhìn nhận một cách không tán thành và thậm chí có thể bị trừng phạt theo luật pháp. Nhưng nhìn chung thì thái độ vẫn đã là thái độ khoan dung.

Matteo Ricci, nhà truyền giáo Gia-tô sống 27 năm tại Trung Hoa kể từ 1583, đã biểu lộ lòng kinh hãi thái độ rộng mở và và khoan dung mà người Hoa dành cho ĐTLA và—quá tự nhiên thôi—ông ta đã xem đây là bằng chứng của sự suy đồi của xã hội Trung Hoa. “Điểm nêu rõ nhất sự bi thảm của những người này không gì ít hơn là sự khao khát nhục dục bẩm sinh; họ thực hiện những tham dục phi tự nhiên, phản nghịch quy tắc của vạn vật, và sự việc này chẳng những không bị nghiêm cấm qua luật pháp, mà cũng không được xem là phi pháp hoặc là một lí do để hổ thẹn. Nó được luận bàn công khai và được thực hiện ở mọi nơi mà không ai ngăn cản.” Tại Hàn quốc, hình tượng hwarang (flower boy, Hoa Đồng tử/ Hoa Lang?) được liên tưởng một cách công khai với ĐTLA, đặc biệt là trong vương triều Lí (Yi 1392-1910). Tại Nhật, nguyên cả một loại hình văn học (tiểu thuyết đoản thiên, thi ca và tiểu thuyết) nói về tình yêu giữa những Samurai và ngay cả giữa những tăng sĩ Phật giáo và những chú tiểu đã được hình thành trong thời trung cổ.[6]

Ở các nước Phật giáo Thượng Toạ bộ như Tích Lan và Miến Điện, ta không thấy có luật pháp chống đối quan hệ ĐTLA giữa những người trưởng thành thoả thuận nhau và chỉ cho đến thời kì bị đô hộ, các luật này mới được người Anh đưa ra. Thái Lan, một nước không hề bị đô hộ, hiện vẫn không có những luật pháp này. Điều này đã khiến những người ĐTLA phương Tây tin rằng quan hệ ĐTLA hoàn toàn được chấp nhận ở những quốc gia Phật giáo Nam và Đông nam á. Như vậy thì chắc chắn là sai. Trong những nước này, khi ĐTLA được đề cập đến thì nó thường được đề cập một cách khôi hài hảo tâm hoặc được nhắc đến với một mức độ thương hại nào đó. Có thể xác định được là cái thái độ kinh tởm, hoảng sợ và thù ghét mà người ĐTLA phương Tây thường phải chịu đựng, vắng mặt ở đây, và sự kiện này xuất phát từ nguyên nhân—với một mức độ rất lớn—, là ảnh hưởng nhân ái và khoan dung của Phật giáo.

[1] Có thể gọi là Phật giáo Nam truyền.

[2] Năm giới, là một trong những tụ tịnh giới nhỏ nhất mà hàng cư sĩ Phật tử phải thực hành. Đó là: 1. Bất sát sinh 不殺生, không được sát sinh; 2. Bất thâu đạo 不偸盗, không trộm cắp; 3. Bất tà dâm 不邪婬; 4. Bất vọng ngữ 不妄語, không được nói xằng bậy; 5. Bất ẩm tửu 不飲酒, không uống rượu.

[3] Pandaka (skt., pā. ) được dịch âm Hán Việt là Bàn-đồ-ca 般茶迦 hoặc dịch ý là Hoàng Môn 黃門, “cổng vàng”. Hoàng Môn là biệt danh của Thái giám vì đây chính là cổng dẫn vào thâm cung, người nam bình thường không được vào.

[4] Giới hạnh của hàng xuất gia theo đạo Bà-la-môn và đạo Phật, là hạnh từ bỏ nhục dục giới tính. Phạm hạnh là một trong những phần quan trọng của giới luật trong Tăng-già.

[5] Nghĩa là nguyên tắc có giá trị chung, có thể “lấy ta suy ra người” được.

[6] Xem thêm bài “Homosexuality in the Japanese Buddhist Tradition” của Dharmachari Jñanavira: http://www.westernbuddhistreview.com/vol3/homosexuality.html .

Bản lược dịch của Lê Trần Huy Phú có thể xem ở đây: http://www.talawas.org/


Bạn có thể xem tại website tinhyeutraiviet đã được đăng lại Đồng tính luyến ái trong truyền thống Phật giáo Nhật Bản

“Homosexuality and Theravada Buddhism” -— Đồng Tính Luyến Ái và Phật Giáo Thượng Toạ Bộ. Tác giả: A. L. De Silva, Janapadaratna chuyển ngữ với sự hỗ trợ của bạn Yankee.


(sưu tầm từ website tinhyeutraiviet)
Về Đầu Trang Go down
 
Quan Hệ Đồng Tính Luyến Ái Theo Quan Điểm Phật Giáo
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Khi phát hiện chồng là đồng tính
» Tại sao lại có đồng tính luyến ái?
» Đồng tính luyến ái
» Tìm hiểu về đồng tính luyến ái
» Vấn đề đồng tính luyến ái và Ơn gọi Linh Mục

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
wagaclub :: Tin Tức :: Tin Trong Giới-
Chuyển đến